Ngày 14/6/2019,
Quốc Hội đã thông qua Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia gồm 7 chương, 36
điều, luật có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2020.
Luật Phòng, chống
tác hại của rượu, bia là đạo luật mang ý nghĩa xã hội và tính nhân văn cao, với
mục tiêu cao nhất cả trước mắt và lâu dài, thay đổi thói quen có hại cho con
người, góp phần quan trọng nâng cao thể chất, tinh thần, tuổi thọ của người
dân.
Một số Điều cơ
bản của Luật Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia, cụ thể như sau:
I. Chính sách của
Nhà nước trong phòng, chống tác hại của rượu, bia được quy định tại Điều 3 như
sau:
1. Thực hiện đồng
bộ các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia.
2. Ưu tiên hoạt
động thông tin, giáo dục, truyền thông; giảm tính sẵn có, dễ tiếp cận của rượu,
bia; giảm tác hại của rượu, bia; tăng cường quản lý sản xuất rượu thủ công;
thực hiện các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia đối với trẻ em, học
sinh, sinh viên, thanh niên, phụ nữ mang thai.
3. Bảo đảm nguồn
lực cho công tác phòng, chống tác hại của rượu, bia; chú trọng các hoạt động
phòng, chống tác hại của rượu, bia của y tế cơ sở và ở cộng đồng; huy động xã
hội hóa các hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia.
4. Khuyến khích
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ
tiên tiến, công nghệ mới nhằm giảm tác hại của rượu, bia.
5. Khen thưởng
tập thể, cá nhân có thành tích trong phòng, chống tác hại của rượu, bia.
II. Trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội được quy định tại
Điều 31 cụ thể như sau:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm giáo dục, tuyên truyền, vận động
nhân dân, đoàn viên, hội viên thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống
tác hại của rượu, bia; đưa nội dung phòng, chống tác hại của rượu, bia vào nội
quy, quy chế của cơ quan, tổ chức; tham gia ý kiến xây dựng pháp luật, thực
hiện giám sát, phản biện xã hội trong lĩnh vực phòng, chống tác hại của rượu, bia theo
quy định của pháp luật.
2. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện trách nhiệm quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Tuyên truyền, giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên, thanh niên
không uống rượu, bia;
c) Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ trẻ em,
học sinh, sinh viên, thanh niên bị ảnh hưởng bởi tác hại của rượu, bia;
d) Lồng ghép hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia trong công tác đoàn,
đội.
3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện trách nhiệm quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em bị ảnh hưởng bởi tác hại của rượu, bia;
c) Lồng ghép hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia trong công tác hội.
4. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình, tham gia giáo dục, tuyên truyền, vận động thực hiện chính
sách, pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia; tham gia ý kiến xây dựng
pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia; cung cấp thông tin về phòng,
chống tác hại của rượu, bia theo quy định của pháp luật.
III. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức trong phòng, chống tác hại của rượu, bia được quy định tại Điều 33 cụ thể như sau:
1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, có trách nhiệm tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống tác hại của
rượu, bia; tổ chức thực hiện nghiêm quy định không uống rượu, bia trong thời
gian làm việc, tại nơi làm việc của cơ quan, tổ chức.
2. Người đứng đầu tổ dân phố, khu phố, khối phố, thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc, tổ chức tại cơ sở, cộng đồng tham gia các hoạt động phòng, chống tác
hại của rượu, bia quy định tại Điều 24 của Luật này.
3. Người đứng đầu, người quản lý, điều hành địa điểm quy định tại Điều 10
và Điều 19 của Luật này có trách nhiệm sau đây:
a) Nhắc nhở, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm quy định tại Điều 10 và Điều
19 của Luật này; từ chối cung cấp dịch vụ nếu người vi phạm tiếp tục vi phạm
sau khi đã được nhắc nhở, yêu cầu;
b) Tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc mọi người thực hiện đúng
quy định về không được uống, không được bán rượu, bia tại địa điểm thuộc, quyền
quản lý, điều hành.
IV.
Trách nhiệm của gia đình trong phòng, chống tác hại của rượu, bia được quy định tại Điều
34 cụ thể như sau:
1. Giáo dục, giám sát, nhắc nhở thành viên chưa đủ 18 tuổi không uống rượu,
bia, các thành viên khác trong gia đình hạn chế uống rượu, bia; động viên, giúp
đỡ người nghiện rượu, bia trong gia đình cai nghiện rượu, bia.
2. Hướng dẫn các thành viên trong gia đình kỹ năng từ chối uống rượu, bia;
kỹ năng nhận biết, ứng xử, xử trí khi gặp người say rượu, bia, người nghiện
rượu, bia và thực hiện các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia.
3. Tham gia với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng thực hiện phòng, chống
tác hại của rượu, bia.
V.
Các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống tác hại của rượu, bia được quy
định tại Điều 5 cụ thể
như sau:
1. Xúi giục, kích
động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia.
2. Người chưa đủ
18 tuổi uống rượu, bia.
3. Bán, cung cấp,
khuyến mại rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi.
4. Sử dụng lao
động là người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc sản xuất, mua bán
rượu, bia.
5. Cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, sĩ quan, hạ sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người làm việc trong lực lượng vũ
trang nhân dân, học sinh, sinh viên uống rượu, bia ngay trước, trong giờ làm
việc, học tập và nghỉ giữa giờ làm việc, học tập.
6. Điều khiển
phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
7. Quảng cáo rượu
có độ cồn từ 15 độ trở lên.
8. Cung cấp thông
tin không chính xác, sai sự thật về ảnh hưởng của rượu, bia đối với sức khỏe.
9. Khuyến mại
trong hoạt động kinh doanh rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên; sử dụng rượu,
bia có độ cồn từ 15 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức.
10. Sử dụng
nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến không được phép dùng trong thực
phẩm; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm không bảo
đảm chất lượng và không rõ nguồn gốc, xuất xứ để sản xuất, pha chế rượu, bia.
11. Kinh doanh
rượu không có giấy phép hoặc không đăng ký; bán rượu, bia bằng máy bán hàng tự
động.
12. Kinh doanh,
tàng trữ, vận chuyển rượu, bia giả, nhập lậu, không bảo đảm chất lượng, không
rõ nguồn gốc, xuất xứ, nhập lậu rượu, bia.
13. Các hành vi
bị nghiêm cấm khác liên quan đến rượu, bia do luật định.
VI.
Xử
lý vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia được quy định tại
Điều 28 cụ thể như sau:
1. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại
của rượu, bia thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử
phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cơ quan, người có thẩm quyền được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật
nghiệp vụ để phát hiện, xử lý kịp thời hành vi vi phạm pháp luật về phòng,
chống tác hại của rượu, bia.
3. Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong phòng, chống tác hại của rượu, bia.
Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật
huyện.