Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ
1.1. Quan
niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Theo Hồ Chí Minh, dân
chủ có nghĩa “dân là chủ”. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là
nước nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân
là ông chủ nắm
chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy.
Thế là dân chủ”. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì đó là một xã
hội thực sự dân chủ.
Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”, “mọi quyền hành đều
ở nơi dân”, nhân dân thật sự là ông chủ tối cao của chế độ mới. Người viết:
“chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ”. Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, “nước ta là nước dân chủ,
mọi người có quyền làm, có quyền nói”. “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là
phục vụ nhân dân”.
Trong quan hệ giữa dân
và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ,
cán bộ, đảng viên là đày tớ và làm đày tớ cho dân. Dân chủ trong xã hội Việt
Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội... Dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật
nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước.
Hồ Chí Minh coi dân
chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ không dừng
lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa
biểu thị mối quan hệ quốc tế, hòa bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình
đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế.
1.2. Quan
điểm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
a) Xây dựng và hoàn
thiện chế độ dân chủ rộng rãi
Ngay từ năm 1941,
trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí
Minh đã “thiết kế" một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc
cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục
tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của
nước nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân.
Ngay sau khi thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng và ban hành
bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực
hiện quyền lực của nhân dân. Điều đó thể hiện rõ ở Chương II Hiến pháp năm 1946
gồm 18 điều quy định về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, Điều 6 ghi rõ: “Tất cả
các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ
quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến
pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
b) Xây dựng các tổ
chức đảng, Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để
bảo đảm dân chủ trong xã hội
Trong việc xây dựng
nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng tới việc xây dựng Đảng với tư
cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng
Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Xây dựng mặt trận với vai trò là liên minh
chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung
của sự phát triển đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi
khác của nhân dân.
Quan điểm nhất quán
của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm
được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy
quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng trở thành hạt
nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân
chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân
chủ của toàn xã hội.
2. Quan điểm
của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
2.1. Về
nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước pháp quyền có những nội dung: Nhà nước của dân, nhà nước do dân và
nhà nước vì dân.
Nhà nước của dân là
tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân
dân lao động làm chủ nhà nước tất yếu dẫn đến hệ quả là nhân dân có quyền kiểm
soát nhà nước. Cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và
quyết định những vấn đề quốc kế, dân sinh.
Nhà nước do dân là nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý. Hồ Chí
Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm
“ghé vai gánh vác một phần”. Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng
của nhân dân làm mục tiêu. Tất cả đều vì lợi ích của nhân dân; ngoài ra, không
có bất cứ một lợi ích nào khác. Một nhà nước vì dân là từ Chủ tịch nước đến
công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân. Mọi công
chức, từ nhân viên đến Chủ tịch nước đều do dân ủy thác cho và phải phục vụ
nhân dân.
2.2. Về
bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Nhà nước bao giờ và ở
đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định.
Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, Nhà nước Việt Nam mới là một Nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân, thể hiện qua các điểm sau:
- Nhà nước do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.
- Nhà nước bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
- Nguyên tắc tổ chức
và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
2.3. Về
xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Hoạt động quản lý nhà
nước phải bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Dân
chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương phép nước. Mọi quyền dân chủ
của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật; ngược lại, hệ
thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn
trọng trong thực tế.
Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc
thực thi quyền lực của nhân dân. Người khẳng định vai trò của pháp luật là:
“Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Người có công lớn trong sự nghiệp lập
hiến, lập pháp của nước ta. Người luôn chăm lo hoàn thiện hệ thống pháp luật, ở
cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu ủy ban soạn thảo Hiến
pháp (Hiến pháp năm 1946 và 1959), đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và
nhiều văn bản dưới luật khác.
Hồ Chí Minh thường chỉ
rõ những tiêu cực và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục những tệ nạn
trong bộ máy nhà nước: đặc quyền, đặc lợi; tham ô, lãng phí, quan liêu; tư
túng, chia rẽ, kiêu ngạo...
Người yêu cầu tăng
cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các
ngành, các cấp.
Để bảo đảm công bằng
và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh số 76/SL ngày
20-5-1950 ban hành Bản quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
“Phép trị nước” của Hồ
Chí Minh là kết hợp cả “pháp trị” và “đức trị - nhân trị”, trong đó “pháp trị”
rất nghiêm khắc, công minh và “đức trị - nhân trị” cũng rất tình người, bao
dung, thấu tình đạt lý. Trong Quốc lệnh do Người ban hành ngày 26-1-1946, đã
đưa ra 10 điều khen thưởng (đức trị) và 10 hình phạt (pháp trị). Trong 10 điều
khen thưởng, Điều 3 “Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng”, Điều 5 “Ai làm việc
công một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng”, Điều 6 “Ai làm việc gì có
lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ được thưởng”. Trong 10
điều hình phạt, Điều 1 “Thông với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, Điều 6 “Để cho
bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, Điều 8 “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài. Những yêu cầu của Người đối với đội ngũ cán bộ, công
chức bao gồm:
- Tuyệt đối trung
thành với cách mạng.
- Hăng hái, thành thạo
công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
- Phải có mối liên hệ
mật thiết với nhân dân.
- Cán bộ, công chức
phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất
là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
- Phải thường xuyên tự
phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong
sạch của Nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO: Ban
Tuyên giáo Trung ương, Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh (Tài liệu nghiên cứu phục vụ triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ
Chính trị về "đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh"), NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.